Trong quá khứ, ranh giới giữa hai dòng sản phẩm thường nói về việc thiết bị chạy các ứng dụng và trò chơi do người dùng cài đặt, nhưng ngày nay, nó chủ yếu là màn hình cảm ứng so với bàn phím. Nhưng vẫn có những thiết bị nằm giữa ranh giới của hai loại đó.
Trước khi Nokia phát hành điện thoại Asha, công ty đã có hai mẫu Touch và Type. Như đã nói, những điện thoại này được thiết kế nhằm mang đến cả nét điện thoại cơ bản lẫn nét điện thoại thông minh. Kết quả là, cả Nokia X3-02 và C3-01 đều ra mắt vào cuối năm 2010.
Điều khiến chúng trở nên đặc biệt là màn hình 2,4 với độ phân giải 240 x 320 pixel có lớp cảm ứng điện trở và dĩ nhiên, giao diện Series 40 quen thuộc đã được điều chỉnh để hỗ trợ đầu vào cảm ứng. Điều này lặp lại câu chuyện về Nokia 5800 XpressMusic. Quan trọng hơn, chúng đều là những điện thoại duy nhất tồn tại cả chế độ cảm ứng lẫn gõ phím.
Giao diện người dùng Series 40 luôn dễ dàng điều hướng, nơi người dùng có thể quản lý nó bằng D-pad và một vài phím thông minh. Nhưng D-pad không cần thiết ở đây, người dùng chỉ cần vuốt lên xuống để cuộn. Các phím thông minh đã được thay thế bằng các nút trên màn hình. Màn hình chính thậm chí có các widget tùy biến. Giao diện người dùng đơn giản và rất cần thiết vì màn hình nhỏ và lớp điện trở không thực sự chính xác trong quá trình xử lý.
Khả năng xử lý chính xác chưa bao giờ là một mục tiêu của sản phẩm, bởi mục tiêu chính ngày đó vẫn là bàn phím vật lý. Chúng cũng có kết nối 3G và Wi-Fi, vì vậy người dùng có thể duyệt web mọi lúc mọi nơi. Thêm vào đó, Opera Mini hỗ trợ màn hình cảm ứng và mang lại trải nghiệm tốt nhất có thể cho phần cứng. Điện thoại cũng có trình duyệt dựa trên WebKit.
Nói về phần cứng, nó khá mạnh mẽ. Ban đầu, điện thoại đi kèm chip lõi đơn 680 MHz, RAM 64 MB và dung lượng lưu trữ 128 MB (cộng với khe cắm thẻ nhớ microSD). Đó là cấu hình cho các phiên bản sửa đổi X3-02.5 và C3-01.5 từ năm 2011. Sau đó chúng được tăng tốc lên 1 GHz và RAM lên 128 MB. Điều đó cũng cho phép quay video 480p ở chất lượng 30 khung hình/giây (tăng từ 15 khung hình/giây) từ camera điện thoại 5 MP.
Chúng ta có thể cười khi nhìn những con số này ở thời điểm hiện tại, nhưng cần nhớ rằng iPhone 3G từ năm 2008 chỉ có chip 412 MHz và RAM 128 MB. Phải đến tận năm 2010, iPhone 4 mới đạt được tốc độ 1 GHz, vì vậy mặc dù giao diện người dùng của Nokia đã chậm chạp nhưng đây là những điện thoại sở hữu các tính năng khá mạnh.
Vấn đề là, đây là một số những điện thoại cơ bản nhanh nhất từng được sản xuất. Quan trọng hơn, chúng lại được thiết kế để chạy trên các thiết bị có công suất thấp hơn nhiều so với các ứng dụng này. Đáng buồn là Nokia không hỗ trợ khả năng chuyển đổi ứng dụng trên bộ đôi sản phẩm này. Người dùng thậm chí không thể rời khỏi ứng dụng để thực hiện cuộc gọi mà họ phải đóng nó.
Dù sao, điện thoại có bề ngoài bằng kim loại, khiến chúng có cảm giác khá cao cấp. Đặc biệt là C3-01 đã mang đến cho chúng ta một số tình yêu đối với Nokia.
Nhưng sự khác biệt giữa C3-01 và X3-02 là gì? C3-01 có điện thoại trang trọng hơn với nút trả lời và nút bỏ qua chuyên dụng, pin 1.050 mAh lớn hơn và đèn flash LED. Trong khi đó, X3-02 tập trung nhiều hơn vào phương tiện truyền thông và nút văn bản cũng mỏng hơn (9,6 mm so với 11 mm), dẫn đến pin 860 mAh nhỏ hơn và đèn flash phía sau cũng bị bỏ qua.
Cả hai điện thoại đều tự hào với HD Voice, Bluetooth 2.1 và USB On-the-Go cho phép đọc ổ USB và sử dụng các phụ kiện USB, thậm chí là bàn phím USB nếu người dùng không muốn phụ thuộc vào bàn phím T9 trên chúng.
Hiện nay, HMD đã mang lại một số điện thoại cơ bản của Nokia và cung cấp cho chúng nền tảng KaiOS dựa trên hệ điều hành Firefox. Vì vậy nhiều người có thể mong đợi sự trở lại của những chiếc điện thoại nói trên từ Nokia.