Bão có đang trở nên tồi tệ hơn?
Mỗi năm, có khoảng 80 đến 90 cơn bão được đặt tên hình thành trên khắp thế giới, khi những xoáy thuận nhiệt đới đạt tốc độ nhất định.
Bão, hay còn có thể gọi là lốc xoáy bắt đầu từ những nhiễu động khí quyển - ví dụ như sóng nhiệt đới, vùng áp suất thấp nơi giông bão và mây hình thành. Khi không khí ấm, ẩm bốc lên từ bề mặt đại dương, gió trong đám mây bão bắt đầu quay. Quá trình này liên quan đến cách Trái đất quay ảnh hưởng đến gió ở các vùng nhiệt đới ngay gần đường xích đạo.
Để một cơn bão hình thành và tiếp tục quay, nhiệt độ bề mặt biển thường phải đạt ít nhất 27 độ C để cung cấp đủ năng lượng, và gió không cần thay đổi nhiều theo độ cao. Nếu tất cả các yếu tố này kết hợp lại với nhau, một cơn bão dữ dội có thể hình thành, mặc dù nguyên nhân chính xác của từng cơn bão rất phức tạp.
Trên toàn cầu, tần suất các cơn bão nhiệt đới không tăng và trên thực tế, số lượng có thể đã giảm - mặc dù dữ liệu dài hạn bị hạn chế ở một số khu vực.
Nhưng có khả năng là tỷ lệ các cơn bão nhiệt đới trên toàn cầu đạt đến cấp độ ba trở lên, nghĩa là đạt tốc độ gió cao nhất đang tăng lên, theo cơ quan khí hậu của Liên hợp quốc (IPCC).
Nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng đã có sự gia tăng về lượng mưa trung bình và lượng mưa đỉnh điểm liên quan đến các cơn bão nhiệt đới.
Việc những cơn bão tàn khốc như Yagi xuất hiện với tần suất tăng nhanh hơn là một vấn đề gây nhức nhối hiện tại. Trong vài tháng vừa qua, thế giới đã chứng kiến nhiều siêu bão gây ảnh hưởng lớn: Beryl ở Đại Tây Dương hồi tháng 7, bão Shanshan vừa đổ bộ vào Nhật Bản tuần trước và siêu bão Yagi đánh vào Philippines, Trung Quốc, Việt Nam, Lào và Thái Lan.
Bão Yagi tăng cấp nhanh chóng, đạt tới mức cấp 4 là một sự kiện “hiếm gặp”, theo cơ sở dữ liệu của Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Mỹ. Chưa từng có cơn bão nào đổ bộ vào Việt Nam với cường độ này, đặc biệt là ở vùng phía bắc. Nhưng có thể, sẽ còn nhiều “Yagi” khác nữa trong tương lai, trên khắp thế giới.
Bên cạnh đó, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) tuyên bố rằng các thảm họa liên quan đến thời tiết đã tăng gấp 5 lần trong 50 năm qua, do biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, nhờ hệ thống cảnh báo sớm được cải thiện và quản lý thiên tai tốt hơn, số người chết đã giảm gần 3 lần.
Biến đổi khí hậu - Thách thức ngày càng lớn
Đánh giá chính xác ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên từng cơn bão nhiệt đới là một thách thức. Các cơn bão tương đối cục bộ và tồn tại trong thời gian ngắn, và có thể thay đổi đáng kể trong mọi trường hợp.
Tuy nhiên, việc nhiệt độ tăng cao sẽ ảnh hưởng đến những cơn bão này theo nhiều cách có thể đo lường được. Đầu tiên, nước biển ấm hơn có nghĩa là bão có thể hấp thụ nhiều năng lượng hơn, dẫn đến tốc độ gió cao hơn. Ví dụ, có từ 4 đến 7 cơn bão lớn ở Đại Tây Dương vào năm 2024 một phần là do nhiệt độ bề mặt biển Đại Tây Dương đạt mức cao kỷ lục. Nhiệt độ cao chủ yếu là do khí thải nhà kính trong thời gian dài.
Thứ hai, bầu không khí ấm hơn có thể giữ nhiều độ ẩm hơn, dẫn đến lượng mưa lớn hơn. Theo một ước tính, biến đổi khí hậu khiến cơn bão Harvey năm 2017 có khả năng xảy ra cao gấp khoảng ba lần.
Cuối cùng, mực nước biển đang dâng cao, chủ yếu là do sự kết hợp của các sông băng và các tảng băng tan chảy, và thực tế là nước ấm hơn chiếm nhiều không gian hơn. Các yếu tố cục bộ cũng có thể đóng một vai trò. Điều này có nghĩa là các cơn bão dâng cao xảy ra trên mực nước biển đã dâng cao, làm cho tình trạng ngập lụt ven biển trở nên tồi tệ hơn. Ví dụ, người ta ước tính mực nước lũ do cơn bão Katrina năm 2005 - một trong những cơn bão chết chóc nhất nước Mỹ - cao hơn 15-60% so với mực nước lũ trong điều kiện khí hậu năm 1900.
Nhìn chung, IPCC kết luận rằng có "độ tin cậy cao" rằng con người đã góp phần làm tăng lượng mưa liên quan đến các cơn bão nhiệt đới và "độ tin cậy trung bình" rằng con người đã góp phần làm tăng khả năng một cơn bão nhiệt đới trở nên dữ dội hơn.
Theo IPCC, số lượng các cơn bão nhiệt đới trên toàn cầu khó có thể tăng lên. Nhưng khi thế giới ấm lên, "rất có khả năng" chúng sẽ có lượng mưa cao hơn và đạt tốc độ gió cực đại cao hơn. Điều này có nghĩa là tỷ lệ cơn bão sẽ đạt đến cấp độ dữ dội nhất, 4 và 5 sẽ tăng lên. Bão mạnh có thể tăng khoảng 10% nếu nhiệt độ toàn cầu tăng giới hạn ở mức 1,5 độ C, tăng lên 13% ở mức 2 độ C và 20% ở mức 4 độ C - mặc dù con số chính xác vẫn chưa chắc chắn.
Cần hành động khẩn cấp để thích ứng với biến đổi khí hậu
Siêu bão Haiyan, một cơn bão cấp 5 đã tấn công Philippines vào năm 2013, là thảm họa thiên nhiên gây chết người nhiều nhất và tốn kém nhất ở quốc gia Đông Nam Á này cho đến nay. Nguyên nhân chủ yếu gây ra bão Haiyan là do nhiệt lượng đại dương và mực nước biển đã tăng lên kể từ năm 1998 do giai đoạn dao động thập kỷ Thái Bình Dương (PDO). Tác động nhiệt động lực học đối với nhiệt độ bề mặt biển khắc nghiệt, mực nước biển dâng cao và nước dâng do bão do biến đổi khí hậu đã làm trầm trọng thêm tác động của nó.
Nghiên cứu năm 2016 có tên “Gia tăng cường độ của các cơn bão đổ bộ vào Tây Bắc Thái Bình Dương kể từ cuối những năm 1970” đã phát hiện ra rằng cường độ của các cơn bão đổ bộ vào các nước Đông và Đông Nam Á đã tăng thêm 12-15%, với tỷ lệ bão cấp 4 và cấp 5 tăng gấp đôi hoặc gấp ba lần.
Với biến đổi khí hậu làm gia tăng cường độ và tần suất của các cơn bão và lốc xoáy, nhu cầu cấp thiết hiện nay là thích ứng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và các khu vực dễ bị tổn thương hơn bởi các hiện tượng cực đoan.
Một báo cáo từ Tổ chức Khí tượng Thế giới cũng cho thấy sự phân bố toàn cầu của các thảm họa và tác động bởi các mối nguy hiểm (lũ lụt từ sông và lũ lụt chung gây ra 44% và 17% có liên quan đến bão nhiệt đới).
Vậy con người cần làm gì khi các cơn bão, lốc xoáy và bão mạnh đang gia tăng do khí hậu ấm lên và sẽ tiếp tục trong tương lai gần? Việc ngăn chặn sự leo thang của các hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt nhất có thể được thực hiện thông qua việc “khử cacbon” nhanh chóng trong nền kinh tế và xã hội cũng như triển khai các chiến lược thích ứng địa phương.
Đối với bão nhiệt đới và bão ngoài nhiệt đới hoặc những cơn bão hình thành ở vĩ độ trung bình (hoặc được gọi đơn giản là "áp thấp"), thì việc đầu tư vào giảm thiểu rủi ro thiên tai, quản lý lũ lụt cả cả dựa vào hệ sinh thái hoặc kỹ thuật, hệ thống cảnh báo sớm sẽ giúp làm giảm thiệt hại kinh tế. Tuy nhiên, năng lực địa phương hạn chế có thể cản trở các khoản đầu tư này ở các nước kém phát triển hơn. Việc quản lý quỹ đạo và cường độ thay đổi của những cơn bão này cũng có thể là một thách thức do những khó khăn trong việc cảnh báo sớm và khả năng tiếp nhận của người dân bị ảnh hưởng.
Nguồn: Tổng hợp