Từ nhiều đời nay, cách đặt tên của người Việt thường tuân theo một quy tắc phổ biến đó là nam – văn, nữ - thị. Cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, quy tắc này được xem như cách tạo đặc trưng cho tên nam và nữ. Vậy tại sao người Việt cổ lại chọn đệm chữ ‘văn’ cho con trai và chữ ‘thị’ cho con gái để phân biệt giới tính mà không phải là bất kỳ từ nào khác?
Chữ ‘Văn’ trong tên nam giới
Theo thói quen, nam giới Việt thường có thể có nhiều tên đệm khác nhau nhưng không bao giờ sử dụng chữ ‘thị’, thay vào đó phổ biến nhất là chữ ‘văn’.
Theo lý giải của một số người, tên đệm này bắt nguồn từ quan niệm thời phong kiến đối với nam giới. Khi đó, chí có nam giới mới được đi học và đi thi, làm người ‘có chữ nghĩa’. Vì thế đây trở thành một trong số những điểm đặc trưng để phân biệt hai giới với nhau.
Chữ ‘văn’ trong tên đệm nhằm nhấn mạnh rằng nam giới thường là những người có đi học, là học trò. Có lẽ vì ý nghĩa hay ho này mà lâu dần ai cũng muốn chứng tỏ bản thân là người có chữ nghĩa và học thức. Do đó, các bậc cha mẹ khi sinh được con trai thường đặt chữ ‘văn’ làm tên đệm để thể hiện ước mơ muốn con cái được thành, danh toại, sự nghiệp học hành được suôn sẻ thuận lợi.
Thói quen đặt tên này dần được hình thành và ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Kết quả là tạo thành một công thức đặt tên phổ biến cho nam giới Việt: họ + Văn + tên.
Ý nghĩa của chữ ‘Thị’ trong tên nữ giới
Về mặt từ gốc, học giả An Chi có lý giải ‘thị’ là một từ Việt gốc Hán để chỉ phụ nữ. Vì thế có lẽ từ này xuất hiện trong tên đệm của nữ giới từ sau thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Trong Từ nguyên từ điển có câu ‘Phu nhân xưng thị’ (đàn bà gọi là thị) và giải thích thêm ‘thị’ còn là một từ để phụ nữ dùng để tự xưng.
Xung quanh việc sử dụng chữ ‘thị’ để đặt tên cho con gái cũng có nhiều tranh cãi. Từ ‘thị’ nguyên gốc có nghĩa là họ hoặc ngành họ. Người Trung Hoa thường dùng chữ ‘thị’ sau tên của người chồng thanh cho tên cúng cơm của người phụ nữ đó.
Tuy nhiên, khi truyền sang Việt Nam, cách dùng của từ này lại có đôi chút khác biệt. Nữ giới trong gia đình quyền quý Việt Nam vẫn giữ họ cha và thêm chữ thị đằng sau. Tiêu biểu cho cách gọi này có thể thấy trong nhiều tài liệu lịch sử với những danh xưng như: hoàng hậu Dương thị, bà phi Nguyễn thị,…lúc này người đọc sẽ hiểu rằng người viết muốn nói đến bà hoàng hậu họ Dương hoặc bà phi họ Nguyễn.
Cách dùng chữ ‘thị’ của người Việt thậm chí còn có thể linh hoạt hơn khi chữ Nôm được sử dụng rộng rãi. Lúc này, người ta sử dụng chữ ‘thị’ gắn trước tên riêng của một người phụ nữ cụ thể như Thị Mầu, Thị Kính,…Đến khoảng thế kỷ 15, chữ ‘thị’ dần gắn liền với tên và họ của nữ giới, như một cách khẳng định gốc gác của người đó, tạo thành công thức đặt tên họ + Thị + tên.
Tuy nhiên, ngày nay công thức đặt tên ‘nam văn nữ thị’ dường như đã được thay đổi ít nhiều. Có không in người sử dụng những tên đệm khác, có ý nghĩa đẹp hơn để hợp với tên chính thức.