Cụ thể, người bị yêu cầu bồi thường là một nhân viên kế toán họ Tấn và nhân viên thủ quỹ họ Giang tại Công ty A.
Khoảng 10h ngày 10/9, thủ quỹ Giang nhận được cuộc gọi từ một người tự xưng là nhân viên Công ty B qua điện thoại văn phòng, thông báo với công ty A rằng anh cần chuyển tiền thanh toán cho Công ty A. Để nhận được tiền, người này yêu cầu được biết thông tin của Công ty A, bao gồm số tài khoản, thông tin về đại diện pháp lý của công ty.
Sau cuộc gọi, thủ quỹ Giang báo thông tin cho kế toán trưởng họ Lý, Lý gửi yêu cầu cho Tấn - kế toán mới của Công ty A - thông tin liên hệ do Công ty B để lại và yêu cầu Tấn gửi thông tin lập hóa đơn cho Công ty B. Tấn gửi thông tin hóa đơn cho bên kia qua QQ (một ứng dụng chat của Trung Quốc) theo yêu cầu của Lý.
Sau đó, tài khoản QQ giả mạo ông Lục - đại diện pháp lý của Công ty A - gửi tin nhắn QQ hỏi Tấn đã liên hệ với Công ty B chưa. Anh ta cũng hướng dẫn Tấn chuyển 280.000 nhân dân tệ (gần 1 tỷ đồng) cho một công ty khác là Công ty C và gửi thông tin hóa đơn.
Tấn sau đó đã tiến hành các thủ tục giải ngân, yêu cầu Giang chuyển khoản, cho biết rằng chính ông Lục là người yêu cầu chuyển khoản. Giang sau đó đã chuyển 280.000 nhân dân tệ cho công ty C thông qua tài khoản trực tuyến.
10 phút sau, ông Lục nhận được thông tin khấu trừ trên điện thoại di động, lập tức gọi điện cho bộ phận tài chính về khoản chi bất thường này. Lúc đó, phòng tài chính mới biết công ty đã bị lừa. Tấn lập tức trình báo vụ việc lên cơ quan công an.
Ngày 25/9, Công ty A nộp đơn lên Ủy ban Trọng tài Tranh chấp Lao động và Nhân sự Lịch Xuyên để yêu cầu Tấn và Giang bồi thường thiệt hại kinh tế 280.000 nhân dân tệ nhưng bị từ chối. Công ty A sau đó đã khởi kiện Tấn và Giang.
Vì sao nhân viên có thể chuyển khoản khi ông Lục chưa xác nhận?
Theo cơ quan điều tra, tài khoản ngân hàng trực tuyến của Công ty A được vận hành như sau:
Bước 1: Người đặt lệnh chi (thủ quỹ) đăng nhập vào tài khoản ngân hàng trực tuyến, gửi thông tin cho người xét duyệt (kế toán). Nếu đặt lệnh chuyển khoản lớn hơn 30.000 nhân dân tệ, việc chuyển khoản yêu cầu có sự phê duyệt của người giám sát (giám đốc). Vào ngày xảy ra sự việc, Lục chuẩn bị đi công tác nên đã giao quyền giám sát cho bộ phận kế toán, dẫn đến việc chưa qua phê duyệt của ông Lục mà khoản chi đã được duyệt.
Ngoài ra, Tấn mới vào Công ty A trước đó 1 tháng, còn Giang vào Công ty A làm thủ quỹ trước đó 2 năm, cả hai người đều đã ký hợp đồng lao động. Tuy nhiên, trong hợp đồng không có điều khoản về việc người lao động phải bồi thường đối với những tổn thất do vi phạm hệ thống quản lý tài sản. Sau sự việc, cả Tấn và Giang đều xin nghỉ việc tại Công ty A.
Tòa phán quyết ra sao?
Tòa án thành phố Lợi Xuyên cho rằng vụ lừa đảo đã gây thiệt hại cho quyền tài sản của công ty và người lao động không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu họ không phạm lỗi lớn. Trong trường hợp này, Tân làm việc cho công ty A mới được một thời gian ngắn, chưa quen với mô hình quản lý và vận hành tài chính của công ty nên đã hoàn thành nghĩa vụ của người động bằng cách gửi thông tin hóa đơn và điền chứng từ thanh toán theo quy định của công ty.
Với Giang, thủ quỹ này cũng đã tuân thủ quy trình chung của công ty và không làm gì sai khi chuyển tiền. Đặc biệt, với một công ty nhỏ, việc quản lý tài chính lại không được chuẩn hóa, và bản thân việc lừa đảo, lấy thông tin một cách tinh vi thường khó để phát hiện.
Theo tòa, Tân và Giang thực hiện nhiệm vụ của mình một cách bình thường, Công ty A không có bằng chứng chứng minh hai người này cố ý hoặc vô trách nhiệm trong công việc. Do đó, Tòa án không chấp nhận yêu cầu bồi thường của Công ty A theo quy định của pháp luật.