Kể từ khi phát minh ra vũ khí hạt nhân và thực hiện nó trong Thế chiến thứ hai, thế giới buộc phải băn khoăn về mối đe dọa chiến tranh hạt nhân sắp xảy ra.
Do đó, quân đội Hoa Kỳ đã thiết lập một số kế hoạch dự phòng nếu đất nước rơi vào một cuộc xung đột hạt nhân tiềm ẩn. Một trong những biện pháp phòng thủ này được mệnh danh là "máy bay ngày tận thế", nói chính xác hơn, đó là một loạt máy bay được dùng làm căn cứ bay cho các hoạt động chống lại bức xạ hạt nhân.
Boeing E-4B, còn được gọi là "máy bay ngày tận thế", được sử dụng làm trung tâm chỉ huy trên không trong thời kỳ khủng hoảng. Ảnh: Allthatsinteresting
"Máy bay ngày tận thế" có tên gọi chính thức là Trung tâm Điều hành Không quân Quốc gia (NAOC), gồm bốn chiếc E-4B - những chiếc Boeing 747-200 đã được sửa đổi - còn được gọi là máy bay Nightwatch, mỗi chiếc được trang bị thiết bị liên lạc hàng đầu để cho phép các quan chức hàng đầu của quân đội duy trì sự kiểm soát sau một cuộc khủng hoảng hạt nhân.
Mặc dù vai trò của "máy bay ngày tận thế" là sử dụng trong một cuộc khủng hoảng hạt nhân tiềm ẩn, nhưng trên thực tế, chúng còn được sử dụng cho nhiều mục đích khác. Những chiếc máy bay ngày tận thế đã phát triển trong khoảng 60 năm để phục vụ nhiều mục đích phòng thủ.
Trạm chỉ huy trên không tiên tiến E-4 trên thiết bị mô phỏng xung điện từ (EMP) để thử nghiệm. Ảnh: Allthatsinteresting
Theo báo cáo của Air Force Times, nhiệm vụ của các máy bay ngày tận thế ban đầu là chỉ đạo các tài sản quân sự trong Chiến tranh Lạnh. Những chiếc máy bay này chỉ được trang bị các thiết bị liên lạc cần thiết để các nhà lãnh đạo quốc gia liên lạc với nhau, nhưng quân đội nhanh chóng nhận ra những lợi ích tiềm năng của một trung tâm chỉ huy quân sự di động.
Ở thời điểm hiện tại, những chiếc máy bay này được sử dụng như một trạm chỉ huy di động tất cả trong một, được trang bị để xử lý nhiều cuộc khủng hoảng liên quan đến chiến tranh, mặc dù việc triển khai này vẫn chưa được sử dụng hết. Những chiếc máy bay phản lực khổng lồ này có không gian văn phòng di động rộng 1.524 mét vuông, bao gồm phòng hội nghị an toàn, phòng họp báo và giường cũi. Chúng có thể ở trên không trong nhiều ngày liền, trong thời gian đó các chuyên gia an ninh quốc gia về mặt lý thuyết có thể giữ liên lạc với nhau.
Những chiếc E-4B cũng được trang bị cửa sổ có lưới bảo vệ chống lại sóng xung kích điện từ do vụ nổ hạt nhân phát ra và buồng lái có mặt nạ chuyên dụng để ngăn phi công bị mù bởi những vụ nổ này.
Hơn nữa, các máy bay phản lực thường được trải qua thời gian bảo dưỡng nặng luân phiên kéo dài 30 ngày để đảm bảo chúng luôn ở trạng thái sẵn sàng hoạt động.
“Những chiếc máy bay này có thể sẵn sàng hoạt động 24/7 suốt 365 ngày trong năm, bên trong chúng luôn có người và đảm bảo rằng 42 hệ thống liên lạc khác nhau đó được kết nối khi chúng cần được kết nối và họ liên tục bảo trì những hệ thống đó”, Trung tá Mike Shirley nói với Air Force Times.
Ảnh minh họa về cách bố trí bên trong máy bay ngày tận thế của Không quân Hoa Kỳ. Ảnh: Allthatsinteresting
Mỗi máy bay phản lực có thể chứa một phi hành đoàn gồm 65 người và tùy thuộc vào nhu cầu của những người trên máy bay, họ có thể kết nối với bất kỳ số điện thoại nào, điều chỉnh bất kỳ đài phát thanh hoặc truyền hình nào...
Đối với một số người, có vẻ như nhu cầu về một kế hoạch dự phòng như vậy là quá mức cần thiết, nhưng các quan chức và chuyên gia quân sự đã tuyên bố rằng đây chính là một lợi thế để theo dõi tất cả các tình huống, kể cả những tình huống có thể dẫn đến xung đột hạt nhân.
Những chiếc máy bay này ban đầu được hình thành vào năm 1973 với tên gọi E-4A, theo Interesting Engineering, với mẫu E-4B chính thức đầu tiên được Boeing chuyển giao vào tháng 12 năm 1979. Trong sáu năm, ba mẫu E-4A đã được chuyển đổi để phù hợp với E-4B và chúng đã được lặp đi lặp lại kể từ đó.
Việc triển khai ban đầu các máy bay phản lực E-4B được ước tính tiêu tốn khoảng 250 triệu đô la, nhưng vào năm 2005, Không quân Hoa Kỳ đã cấp một hợp đồng 5 năm trị giá 2 tỷ đô la cho Boeing để hiện đại hóa liên tục các máy bay ngày tận thế. Ngoài ra, Lực lượng Không quân được yêu cầu trả khoảng 160.000 đô la mỗi giờ để vận hành máy bay.
Lực lượng Không quân Hoa Kỳ hiện đang phát triển một loại máy bay thay thế cho E-4B, nhưng không rõ khi nào một chương trình mới sẽ được đưa ra. Ảnh: Allthatsinteresting
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực hiện đại hóa, điều này không thay đổi được thực tế là những chiếc E-4B có nguồn gốc từ những năm 1970. Rõ ràng là quân đội nhận thấy giá trị của việc duy trì một số loại trung tâm chỉ huy trên không, nhưng câu hỏi đặt ra là liệu những chiếc máy bay này, ở dạng hiện tại, có còn là một lựa chọn khả thi hay không?
Trên thực tế, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld ban đầu dự kiến cả 4 chiếc máy bay này sẽ được cho nghỉ hưu vào năm 2009, dù điều này đã không bao giờ xảy ra. Một chiếc đã được cho nghỉ hưu vào năm 2007, nhưng sau đó được đưa vào sử dụng trở lại.
Vào năm 2021, Lực lượng Không quân Hoa Kỳ bắt đầu phát triển một nền tảng có thể thay thế các máy bay ngày tận thế hiện tại của họ, được gọi là Trung tâm Điều hành Lực lượng Dù có thể Sống sót (SAOC). Lực lượng Không quân cho biết vào đầu năm 2022, chương trình này vẫn “đang trong giai đoạn phát triển”, nhưng họ cũng yêu cầu 203 triệu đô la cho nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm và đánh giá chương trình như một phần trong yêu cầu ngân sách cho năm 2023.
Số tiền này đã tăng hơn gấp đôi yêu cầu năm 2022 là 95 triệu đô la và tăng gấp bốn lần yêu cầu năm 2021 là 50 triệu đô la. Các dự đoán từ Chương trình Phòng thủ Những năm Tương lai (the Future Years Defense Program) ước tính rằng nguồn tài trợ sẽ chỉ tiếp tục tăng lên, có thể đạt tới mức 610 triệu đô la vào năm 2024 và 856 triệu đô la vào năm 2025.
Tuy nhiên, một số ủy ban đã đưa ra quan ngại về thời gian và liệu SAOC có sẵn sàng trước khi NAOC kết thúc vòng đời thực sự của nó hay không.