Có thể các bạn đã biết, địa lôi/mìn là 1 trong số những loại vũ khí sát thương nổi tiếng nhất trong chiến tranh và ngay cả trong những tựa game về đề tài sinh tồn, bắn súng. Nhưng, liệu các bạn đã biết về lịch sử, nguồn gốc của thứ vũ khí này chưa?
Đầu tiên, chúng ta phải nói về thuốc súng trước. Tại sao lại như vậy? Bởi ở thời kỳ đầu, loại hỗn hợp lưu huỳnh, than và kali nitrat này chính là thành phần quan trọng nhất để tạo ra 1 quả bom đó.
Mặc dù sinh ra là 1 vũ khí quân sự, nhưng nó lại được tạo ra nhờ mục đích nhảm nhí vô cùng: chế tạo ra 1 loại thuốc trường sinh bất lão. Cuối cùng thì lại chẳng có thuốc bất tử gì cả, mà chỉ còn lại thứ vũ khí dễ cháy nguy hiểm này thôi.
Tuy nhiên: "Bản thân thuốc súng nếu đứng 1 mình thì không phải là một thứ vũ khí nổ đùng đùng đúng nghĩa" - nghe thì hơi vô lý, nhưng thật sự khá là thuyết phục. Bởi khi chúng được đốt, chúng cũng chỉ bốc cháy nhanh chóng mà không gây ra vụ nổ nào hết. Về mặt cơ bản, bom mà chỉ có thuốc súng thì vốn không phải là bom.
Khi hồi đầu được sử dụng trong quân sự, thuốc súng được dùng theo 1 vài cách đơn giản như chế tạo "hỏa tiễn", "hỏa hổ" và "hỏa pháo". Hỏa tiễn ở đây là "cung xạ hỏa thạch lựu tiễn", tức "cung bắn ra mũi tên mang quả thạch lựu có lửa", còn hỏa hổ là 1 loại "súng phun lửa thời đầu". Hỏa pháo là hình thức đem thuốc nổ gói lại, châm ngòi, rồi quẳng thẳng sang trận địa của địch bằng máy bắn đá.
Theo lịch sử ghi lại, thì những nhà hóa học thời kỳ nhà Tấn đã phát hiện ra rằng, nếu thuốc súng được nhồi chặt vào 1 bao đựng bằng kim loại kín, nó có khả năng tạo ra "một tiếng sấm kinh thiên động địa", đủ khiến địch thủ tan thành khói bụi. Và đó chính là tiền thân của bom đạn ngày nay, khi đến năm 1231 Sau Công Nguyên (thế kỷ 13) thì nhà Tống đã thành công trong việc chế tạo những thứ này.
Vào năm 1232, quân Kim tiến đánh nước Tống, bao vây Khai Phong Phủ. Để phản công, quân Tống liền bắn ra những cái bình sắt chứa đầy thuốc nổ, gọi là "chân thiên lôi" (sấm động) mà phá vây, đẩy lùi quân địch. Về sau này, cả quân Kim lẫn quân Nguyên đều sử dụng kĩ thuật này.
Đến năm 1277, nhà Tống mới bắt đầu nghĩ ra phương án mang tên "địa lôi". Cụ thể thì, ở thời điểm đó thì nhà Tống đang lo sợ trước nguy cơ xâm lược thì quân Mông Cổ. Thế là, 1 sĩ quan sáng dạ tên Lâu Kiềm Hạt đã nảy ra 1 ý tưởng tuyệt vời: chôn 1 trái bộc phá dưới đất, và nó sẽ phát nổ khi vó ngựa quân xâm lăng đi qua. Dĩ nhiên sau này thì quân Tống vẫn tan tác như thường. Biết sao được, quân Mông Cổ mà, cũng nên thông cảm cho nỗ lực của họ chứ nhỉ?
Bù lại thì từ đó, người Trung Quốc đã phát triển ra được 2 loại kíp nổ. Đầu tiên là dạng mật phục, yêu cầu phải có lính Trung Quốc nằm chờ và châm ngòi khi quân địch tiến tới gần. Loại thứ 2 thì cần theo cơ chế kích hoạt phức tạp được dẫn truyền bởi chuyển động của đối phương.
Ở dạng 2 thì khi quân địch dẫm vào 1 tấm kim loại đặt dưới đất, thanh chốt sẽ rơi ra khiến quả nặng rơi xuống một rãnh đào ngầm. Quả nặng rơi sẽ kéo theo 1 sợi dây được buộc vào 1 bánh xe và khiến nó xoay. Bánh xe này được thiết kế để hoạt động như 1 miếng đá đánh lửa, tạo ra tia lửa đốt cháy ngòi nổ.
Trong chiến tranh Việt Nam và ở Campuchia , có những mìn tự tạo dễ làm và nguy hiểm. Ví như đạn cối treo lên cây lau sậy, người đi gạt rơi nổ. Du kích Củ Chi có loại mìn hoàn toàn tàng hình với máy dò điện từ. Mìn đúc bằng khối thuốc nổ lớn lấy từ bom đạn chưa nổ. Ngòi kích nổ mìn làm bằng những chất dễ cháy, trên cắm cái que, xe cộ gạt đổ que kích thuốc cháy, thuốc cháy kích thuốc nổ mồi lật đổ xe tăng.
Tổng kết lại, mìn tuy lợi thế về quân sự, nhưng rất khó thu hồi. Sau chiến tranh, đất đai bị xáo trộn, bản vẽ những bãi mìn thất lạc hoặc chưa bao giờ có. Việc gỡ mìn sau chiến tranh rất tốn thời gian, nhân mạng, tiền của, gây nên những thảm họa lớn và lâu dài.