Trong Tây Du Ký 1986, kiếp nạn trên sông Thông Thiên, có một thần thú xuất hiện nhận được sự chú ý lớn của khán giả, đó là con rùa khổng lồ, được gọi là Lão Rùa. Lão Rùa là thần thú có bề ngoài khổng lồ, có thể chở 4 thầy trò Đường Tăng qua sông.
Lão chỉ có một lời nhờ vả duy nhất đó là khi 4 thầy trò gặp được Phật Tổ thì hỏi giúp lão là: "Tôi có một điều thắc mắc là tu đã một ngàn ba trăm năm mà chưa đặng hóa hình người, tuy là biết nói và sống lâu, song chưa thoát kiếp! Xin thầy làm ơn bạch quá Phật Tổ, coi bao giờ tôi đặng thành người".
Sau này khi trở về, vì quên mất lời nhờ của Lão Rùa mà cả 4 thầy trò bị Lão Rùa hất xuống sông khiến cho kinh thư ướt hết, đây cũng là kiếp nạn cuối cùng của họ.
Hầu hết mọi người đều cho rằng Lão Rùa có lẽ chỉ là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tác giả Ngô Thừa Ân nhưng ít ai ngờ ngoài đời thực sự tồn tại loài rùa khổng lồ chở được nhiều người trên lưng như vậy.
Loài rùa siêu khổng lồ mà chúng ta nhắc tới ở đây chính là Rùa mặt đất với danh pháp khoa học Stupendemys geographicus, trong đó Stupendemys có nghĩa là "rùa khổng lồ". Đáng tiếc, Stupendemys geographicus hiện đã tuyệt chủng.
Hóa thạch mai của rùa Stupendemys geographicus. Ảnh: Sohu
Stupendemys geographicus là một chi tiền sử của rùa cổ nước ngọt. Hóa thạch của nó được tìm thấy ở phía bắc Nam Mỹ, trong các tảng đá có niên đại từ Trung Miocene cho đến khi bắt đầu Pliocene, khoảng 13 đến 5 triệu năm trước. Hóa thạch mai rùa này dài tới gần 4 mét, ước tính tổng chiều dài cơ thể của nó đạt tới hơn 5 mét do chúng có một cái cổ rất dài và nặng hơn 5 tấn. Với kích thước như vậy, chúng có thể dễ dàng chở vài người cùng lúc trên mai.
Kích thước của loài rùa Stupendemys geographicus so với rùa hiện đại và con người. (Ảnh: Sohu)
Hóa thạch đầu tiên của loài này được tìm thấy vào những năm 1970 và được đặt tên từ năm 1976. Hầu hết các hóa thạch được tìm thấy tại Brazil, Colombia, Venezuela và một số quốc gia khác. Các nhà khoa học nhận thấy rằng loài rùa Stupendemys geographicus trước đây thường sống ở phía bắc Nam Mỹ.
Cho đến nay, Stupendemys geographicus vẫn được các nhà khoa học công nhận là loài rùa có kích thước to lớn nhất từng được con người tìm thấy.
Đánh giá từ các tầng địa chất nơi tìm thấy hóa thạch cho thấy loài rùa khổng lồ này thường sống ở những ao, hồ trong rừng mưa nhiệt đới hoặc trong các dòng sông chảy chậm. Chúng dành phần lớn thời gian trong nước và chủ yếu ăn thực vật.
Sau đó, nhà cổ sinh vật học người Venezuela - Rodolfo Sánchez cùng nhóm của mình đã tìm thấy một mẫu hóa thạch mai rùa mặt đất khổng lồ ở Urumac, Venezuela, có niên đại khoảng 8 triệu năm trước. Mẫu hóa thạch này gần như là phiên bản hoàn chỉnh nhất của loài rùa mặt đất.
Đặc biệt trong mẫu hóa thạch này, họ đã tìm thấy một số đặc điểm chưa được phát hiện trước đây là mấu sừng dài của loài rùa này. Tuy nhiên, những cá thể đực của rùa mặt đất mới có cặp mấu sừng dài này. Cặp sừng này không mọc trên đầu mà mọc ở mặt trước của thân và hai bên cổ. Đây cũng đặc điểm nhận dạng của những con rùa mặt đất giống đực.
Theo các nhà cổ sinh vật học, rùa Stupendemys geographicus có kích thước lớn như vậy là để tự vệ trước những kẻ săn mồi khác và cặp sừng trên thân mai cũng là một trong những vũ khí của chúng. Rùa Stupendemys geographicus chỉ có một thiên địch tự nhiên là cá sấu Purussaurus. Purussaurus là một chi tuyệt chủng của cá sấu caiman khổng lồ sống ở Nam Mỹ trong thời đại Miocene, từ Colhuehuapian đến Montehermosan trong phân loại SALMA.
Căn cứ để các nhà khoa học kết luận như vậy là bởi trên những mẫu hóa thạch của rùa mặt đất, họ chỉ tìm được vết cắn của cá sấu Purussaurus. Chỉ có lực cắn của cá sấu Purussaurus mới có thể phá vỡ được lớp mai cứng chắc của loài rùa Stupendemys geographicus.
Cho đến nay, Stupendemys geographicus vẫn được các nhà khoa học công nhận là loài rùa có kích thước to lớn nhất từng được con người tìm thấy. Họ hàng gần nhất của loài rùa này là loài Podocnemis expansa sống trong một hệ thống đầm lầy khổng lồ ở Nam Mỹ. Loài Podocnemis có chiều dài thân khoảng 1 mét và trọng lượng trung bình khoảng 90 kg.
Tây Du Ký là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Trung Quốc, được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590. Nhiều học giả sau này cho rằng, tác phẩm do Ngô Thừa Ân (sinh năm 1500, chưa rõ năm mất) - một nhà văn, nhà thơ thời Minh sáng tác. Tây Du Ký bắt nguồn từ một câu chuyện có thật: Nhà sư trẻ đời Đường Thái Tông tên là Trần Huyền Trang, năm 21 tuổi đã một mình sang Ấn Độ tìm thầy học đạo. Ông ra đi từ năm 629 đến năm 645 mới về Trung Quốc, tổng cộng là 17 năm; trong đó, có 6 năm tu học ở chùa Na Lan Đà - một trung tâm Phật giáo hồi bấy giờ. Khi về nước, ông phải dùng tới 24 ngựa tải 657 bộ kinh Phật. Câu chuyện có thật đó vốn đã mang màu sắc huyền thoại, được truyền tụng rộng rãi trong dân gian và được thần thoại hóa. Ngô Thừa Ân tuy là người tập hợp và "gia công" cuối cùng, nhưng với ngòi bút sáng tạo, tác phẩm của ông không những có dung lượng đồ sộ, mà tư tưởng gửi gắm được nâng cao, hình tượng nhân vật sống động, văn phong uyển chuyển, nhất quán. Trong tiểu thuyết Tây Du Ký, nhà sư Huyền Trang (Đường Tam Tạng hay Đường Tăng) được Quan Âm Bồ Tát bảo đến Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh Phật giáo mang về Trung Quốc. Ông đã giải thoát Tôn Ngộ Không khỏi núi Ngũ Hành, rồi lần lượt thu nạp các đệ tử Trư Bát giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã (trong hình thể con ngựa). Nhiều học giả cho rằng hình ảnh kết hợp giữa thầy trò Tam Tạng ẩn giấu một khái niệm về tâm. Mỗi nhân vật từ thầy trò Đường Tăng cho đến con ngựa đều biểu trưng cho một đặc tính thường thấy của nhân tâm. Chuyển thể từ tiểu thuyết này, phim Tây Du Ký 1986 do Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), Cục Đường sắt Trung Quốc phối hợp sản xuất từ năm 1982 và đến năm 1988 thì hoàn thành, được xem là một bộ phim truyền hình kinh điển của châu Á. |